Những đóng góp quan trọng của các KCN tỉnh Bình Dương kể từ khi thành lập
19.07.2016 2100 dothidiuhd
Trong 20 năm qua, với rất nhiều các chính sách ưu đãi, những điều kiện thuận lợi về mặt kết cấu hạ tầng và các thủ tục hành chính giản đơn, các KCN tại tỉnh Bình Dương đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với rất nhiều các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu ở tư nước ngoài.
Đối với toàn Bình Dương, việc thu hút các đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh để có thể phát triển kinh tế, đặc biệt là tiến hành đầu tư vào các KCN tập trung trong thời gian qua đã đạt được rất nhiều thành quả quan trọng, góp phần đẩy nhanh các tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa tỉnh Bình Dương trở thành một tỉnh công nghiệp.
Tính đến nay, các KCN Bình Dương có khoảng 1.479 dự án còn hiệu lực, bao gồm khoảng 1.050 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 7,676 tỷ USD và 429 là dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 32.740 tỷ đồng. Ngành nghề được thu hút vào KCN hầu hết là sản xuất công nghiệp và các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Hiện nay, các KCN có khoảng 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có những dự án đầu tư vào KCN, trong đó Đài Loan là đứng đầu (với khoảng 298 dự án, vốn là 2 tỷ USD), kế đến chính là Hàn Quốc (193 dự án, số vốn là 988 triệu USD), Nhật Bản ( với 110 dự án, vốn là 700 triệu USD), Hồng Kông ( với 36 dự án, vốn là 611 triệu USD).
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp qua từng năm vẫn không ngừng tăng lên đáng kể, bình quân hàng năm có từ khoảng 60-70 doanh nghiệp mới được đi vào hoạt động, tuyển công nhân rất nhiều. Tính đến nay cũng đã có khoảng 1.110 dự án được đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đạt tỷ lệ là 75% số dự án còn hiệu lực; trong đó có khoảng 723 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm khoảng 65%, 387 doanh nghiệp có đầu tư trong nước, chiếm khoảng 35%.
Các KCN ra đời cũng đã tạo nên những vùng công nghiệp rất tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển tốt các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ để phục vụ công nghiệp, nâng cao được giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao được hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất.
Tốc độ tăng doanh thu hằng năm bình quân là 30 - 35% và dự kiến đến năm 2015 doanh thu sẽ đạt khoảng 8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm khoảng tầm 25% kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh. Mặc dù ở từng thời điểm nhất định, do có những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới đang bị suy thoái, song các doanh nghiệp KCN cũng đã chủ động tìm kiếm được các khách hàng và thị trường mới, từng bước chú trọng và nâng cao được thị phần nội địa, duy trì được tốc độ tăng trưởng của mình. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp cũng từng bước được mở rộng, không chỉ việc thị phần trong nước ngày càng tăng mà cả việc sang các nước khác trên toàn thế giới nữa. Trong giai đoạn từ 2011-2015, các KCN cũng đã tạo ra doanh thu là 32,5 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu đạt khoảng 15,5 tỷ USD; nộp ngân sách khoảng 800 triệu USD. So với giai đoạn năm 2006-2010, doanh thu đã tăng 98%, kim ngạch xuất khẩu đã tăng 105%, nộp ngân sách đã tăng 91%.
Trong khoảng 20 năm qua, các doanh nghiệp KCN Bình Dương cũng đã tạo nên doanh thu đạt vào khoảng 54,3 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu là 25,5 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu là 30,3 tỷ USD, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1,36 tỷ USD.
Lực lượng lao động trong KCN cũng gia tăng cùng với sự gia tăng số lượng của các KCN và các dự án hoạt động trong KCN, việc làm Bình Dương nhờ vậy mà cũng được gia tăng. Hàng năm, các doanh nghiệp cũng đã giải quyết việc làm mới cho gần 12.000 lao động, nâng được số lao động đang làm việc trong các KCN lên gần 240.000 lao động, với thu nhập bình quân của mỗi lao động phổ thông năm 2015 đạt trên 4 triệu đồng/mỗi người/tháng, tăng gấp 2 lần so với thời gian năm 2010.
Nếu như trước đây chưa có bộ Luật Môi trường, thì các KCN không có nhà máy xử lý phần nước thải tập trung, nhưng sau khi đã có Luật đến nay, trong tổng số 23 KCN đi vào hoạt động thì có 22/23 KCN đã có nhà máy xử lý nước thải đi vào tập trung đang hoạt động, với tổng công suất thiết kế là 89.100 m3/ngày đêm và cũng đã xử lý cho gần 50.000 m3 nước thải của các nhà máy. Riêng KCN Mai Trung, hiện đã có 3 doanh nghiệp đang hoạt động với lượng nước thải là 30 m3/ngày và tự xử lý được sang loại A, đồng thời cũng do điều kiện pháp lý của các chủ đầu tư KCN chưa đảm bảo, UBND tỉnh cũng đã đề nghị Chính phủ đưa KCN này ra khỏi khu quy hoạch. Như vậy, 100% KCN Bình Dương đã và đang hoạt động đều có các nhà máy xử lý nước thải tập trung.
Các chủ đầu tư cũng đã quan tâm đến việc trồng cây xanh tập trung và cây xanh phân tán để tạo cảnh quan và bầu không khí trong lành cho các KCN theo hướng xanh, sạch, đẹp. Điều đó cũng cho thấy, hầu hết các KCN đã thực hiện rất tốt và hài hoà các mục tiêu thu hút đầu tư với việc giải quyết vấn đề về môi trường, xây dựng và phát triển được KCN theo chiều hướng bền vững.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, sự phát triển của các KCN trong thời gian qua còn có rất nhiều những khó khăn và hạn chế nhất định như cơ chế chính sách không đượcổn định, tỷ lệ lấp kín các đất công nghiệp còn thấp, việc thực hiện quy hoạch chi tiết của một số KCN vẫn còn chưa đồng bộ, công tác bảo vệ môi trường một số nơi cũng chưa đảm bảo…, làm ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phát triển KCN theo hướng bền vững.
Bài học kinh nghiệm
Một là, cùng với những chủ trương và chính sách của Nhà nước khuyến khích nhanh các thành phần kinh tế phát triển, hệ thống các chính sách của Nhà nước không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để tạo môi trường thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư; sự ủng hộ của Chính phủ và của các Bộ, ngành Trung ương; có được sự thống nhất cao trong Đảng bộ, chính quyền và trong các ngành, các cấp trong việc chỉ đạo, việc điều hành, quản lý KCN; đặc biệt là có được sự đồng thuận của phần lớn những người dân trong vùng giải tỏa, tạo điều kiện để cho KCN được triển khai một cách nhanh chóng, thuận lợi cho việc đáp ứng yêu cầu phát triển.
Hai là, quy hoạch hình thành KCN phải dựa trên những lợi thế so sánh của từng vùng, có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thật thuận lợi, gắn với sự phát triển hệ thống giao thông trong và ngoài hàng rào của KCN, đấu nối của các hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, bưu chính viễn thông...), đào tạo nguồn lao động cung cấp cho KCN.
Ba là, lựa chọn được chủ đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng KCN phải có năng lực về tài chính, về kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và về kinh nghiệm quản lý, có được mối quan hệ khách hàng rộng; đặc biệt là về đội ngũ cán bộ kinh doanh phải có được sự am hiểu về hoạt động của cả KCN, để từ đó để có khả năng tiếp thị, xúc tiến và kêu gọi đầu tư vào KCN.